Cai trị Pomare II

Bản khắc của Pomare II, Vua Tahiti.

Triều đại cai trị của Pomare II thực sự bắt đầu vào năm 1803 với cái chết của cha ông. Ngay từ năm 1812, nhà vua đã tuyên bố gắn bó với Cơ đốc giáo. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1819, trong lễ rửa tội công khai của ông, bí tích đã được thực hiện tại Nhà nguyện Hoàng gia của các phái bộ Papaoa, tại Tahiti. Buổi lễ này diễn ra trước sự chứng kiến ​​của bốn đến năm nghìn người. Pōmare II được làm lễ rửa tội trước bục giảng trung tâm, được thực hiện bởi những nhà truyền giáo là Bicknell và Henry.Sau đó, nhiều người khác cũng đã được rửa tội ở TahitiMoorea. Năm 1819, các nhà truyền giáo tổ chức lễ kỷ niệm hai mươi hai năm họ đến Tahiti. Họ đã đóng góp phần lớn vào việc tập trung quyền lực của gia đình hoàng gia.Vào ngày 12 tháng 11 năm 1815, nhờ những liên minh, Pomare II đã thắng một trận chiến quyết định tại Fe'i Pī (Punaauia), đặc biệt là chống lại Opuhara, một thủ lĩnh của gia tộc Teva hùng mạnh, vẫn đang gây khó dễ cho Pomare. Chiến thắng này cho phép Pomare được công nhận là Ari'i Rahi, có nghĩa là vua của Tahiti. Đây là lần đầu tiên Tahiti được thống nhất dưới sự cai trị của một vị vua. Đó là sự kết thúc thời kỳ của các tù trưởng và tầng lớp quý tộc quân sự, được thay thế bằng chế độ quân chủ tuyệt đối. Đồng thời, đạo Tin lành đã lan rộng nhanh chóng nhờ sự bảo trợ của Pomare II, thay thế các tín ngưỡng truyền thống. Từ năm 1817, Phúc âm đã được dịch sang tiếng Tahiti và được giảng dạy trong các trường tôn giáo. Năm 1818, Mục sư Crook thành lập thành phố Papeete, nơi sẽ trở thành thủ phủ của hòn đảo.Năm 1819, theo sáng kiến ​​của những người truyền giáo, Pomare đã thiết lập một bộ luật đầu tiên ở Tahitian, được biết đến dưới tên Code Pomare. Trong đó có điều, tất cả đàn ông và phụ nữ phải mặc quần áo che kín cơ thể, cấm các điệu nhảy và bài hát, hình xăm và đồ trang trí bằng hoa, tất cả những truyền thống này đều bị xem là "những thứ thật đáng xấu hổ".